Chùa tọa lạc ở khu
trung tâm làng (trong làng), phân biệt với chùa Ngoài ( ngôi chùa tọa lạc ở rìa
phía Tây của làng). Chùa Trong, có tên chữ là “ Hưng Long tự” , dân trong vùng
thường gọi là chùa Hòa.

Chùa Hòa tọa lạc trong một khuôn viên rộng 3000 mét vuông, được thế “Tiền thủy, hậu sơn”. Phía trước là một hồ nước rộng gần 2 héc-ta, quanh năm sóng nước lăn , tăn. Hồ nước này gọi là Ao Chùa. Phía sau chùa là một gò đất nhân tạo, trên đó có đàn lộ thiên thờ Tôn tử và các quan võ của làng. Nơi đây gọi là Võ chỉ. Theo bia ký dựng tại tam quan trước cửa chùa, thì chùa được khởi dựng vào thời hậu Lê, thế kỷ thứ XVII, tính đến nay đã được gần 400 năm. Chùa đã trải qua các đợt trùng tu vào các năm 1686, 1692, 1891, 1907, 1944, 1994 và những năm gần đây. Đợt trùng tu năm 1944, sư trụ trì Thích Thanh Hiệt ( tức cụ sư Đào) đã thay hàng cột tiền, hàng cột tiền và ngưỡng cửa tòa tiền đường bằng đá, tạo cho công trình thêm vững chắc và cổ kính.
Quy hoạch kiến trúc ngôi chùa gồm:
Ngôi chính điện, còn giữ được hầu như nguyên vẹn từ khi mới xây dựng.
Nhà thờ Tổ, trước 3 gian năm 1949 đã bị phá hủy. Từ năm 2004 đến nay, được sự quan tâm của Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể, nhân dân trong làng, xã, cùng khách thập phương, nhà sư trụ trì Thích Tuệ Nhật đã khôi phục lại nhà Tổ quy mô lớn hơn xưa, gồm 4 gian và làm thêm 7 gian nhà mẫu. Toàn bộ các công trình đều bằng gỗ tứ thiết, mái lợp ngói mũi, tường xây gạch xi măng cát.
Ngoài ra hàng trăm mét vuông sân chùa cũng đã được lát gạch; đường vào chùa cũng đã được trải bê tông .
Trong vườn chùa, phía trước còn tọa lạc 8 tháp mộ sư trụ trì trước đây và một lăng mộ ni sư được Nhà nước phong là “ Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Vườn chùa cũng có rất nhiều cây xanh, tạo cảnh quan thâm nghiêm, tĩnh mịch.
Ngôi chính điện chùa Hòa có kiến trúc kiểu chữ Công (工), gồm 5 gian tiền đường, 3 gian ống muống và 3 gian hậu cung, nối liền nhau, tạo thành không gian thờ tự khép kín. Mặt tiền nhìn hướng Tây Nam.
Năm gian tiền đường, dài 14,38 mét, chất liệu bằng gỗ lim, bao gồm 6 vì kèo. Hai vì trung tâm và hai vì trung gian bên được kiến tạo giống nhau, kiểu giá chiêng. Riêng hai vì hồi áp tường lại có kiến trúc kiểu con chồng thước thợ.Tại hai vì hồi áp tường lại có kiến trúc kiểu con chồng thước thợ. Tại hai vì nách gian trung tâm có hai bức chạm liên hoàn cả hai mặt, một mặt chạm lá hóa rồng, một mặt chạm cúc hóa rồng, thay thế cho hệ thống các con thuận, tạo cho không gian kiến trúc thêm sống động.
Các vì kèo là hệ thống giằng ngang của toàn bộ công trình. Mỗi vì kèo bao gồm nhiều chi tiết, đều được các nghệ nhân tạo dựng kỹ càng, hệ thống mang mộng bén khít.
Hệ thống giằng giọc, gồm: tầu, lá mái, xà thượng, xà hạ, gộp mái... Đặc biệt, hệ thống hoành được bài trí theo lối “Thượng tam, hạ tứ” khá chắc chắn. Các hoành vuông được soi chỉ, bào nhẵn. Các hoành tròn được tạo dáng thon đều. Thượng lương chắc khỏe.
Tại tọa tiền đường còn lưu giữ được nhiều mảng chạm khắc đạt trình độ nghệ thuật cao, mang đậm nét kiến trúc truyền thống, thể hiện sự hài hòa của nghệ nhân xưa. Trên các bẩy hiên và xà nách, con thuận 1 khoảng, 2 khoảng, 3 khoảng, chạm lá lật, lá hóa rồng. Nét chạm mềm mại mô tả được ý chủ đạo của đề tài.
Phần nề ngõa: Móng, tường xây bằng gạch chỉ. Mái lợp ngói mũi truyền thống. Bờ cánh mềm mại. Tại đây có các trụ đấu tượng trưng cho ba thời của nhà Phật: Quá khứ - Hiện tại – Vị lai.
Ba gian ống muống dài 5,43 mét, rộng 5,1 mét, được nối với gian giừa tiền đường bằng hai xối góc, gồm 3 vì kèo: Vì thứ nhất có kiến trúc kiểu giá chiêng. Vì thứ hai từ xà nách đến thượng lương là một bức chạm thay thế. Vì thứ ba xây cuốn vòm bằng gạch. Ba gian ống muống và ba gian hậu cung, phần móng, tường cũng xây bằng gạch chỉ, mái lợp ngói mũi.
Áp ngay phía trước tòa điền có gạch tam quan. Tại đó có các bia kể về sự tích ngôi chùa.
Tại ngôi chính điện chùa, các ban thờ, hoành phi, câu đối, tượng Phật... còn giữ được hầu như nguyên vẹn.
Tượng thờ:
Tượng thờ trong hậu cung có 5 lớp, tính từ trên xuống:
Lớp thứ nhất: bao gồm ba pho tượng tam thế: Hiện tại, Quá khứ và Vị lai. Tượng được tạc cùng kích thước và phong cách. Tượng có từ thời Nguyễn. (TK XIX)
Lớp thứ hai: Tượng A Di Đà. Đây là pho tượng đẹp, có niên đại thời Nguyễn (TK XIX)
Lớp thứ ba: Gồm ba pho, chính giữa là tượng Quan Âm Chuẩn Đề. Hai bên là tượng Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát. Ba pho tượng này mới được tạc.
Lớp thứ tư: gồm hai pho, bên phải là tòa Cửu Long, bên trái là tượng Phật. Tòa Cửu Long mô tả chín con rồng đang phun nước tắm cho Thích Ca Mâu Ni, khi ngài mới được sinh ra. Xen kẽ các con rồng là các tượng Phật, tượng các vị Bồ Tát và vân tản. Tượng Thích Ca Mâu Ni mặc váy ngắn đứng trên đài sen, tay trái chỉ lên Trời, tay phải chỉ xuống Đất, hai chân hơi khuỵu xuống, bụng phệ, khuôn mặt bầu bĩnh. Tòa Cửu Long bằng đồng, do nhân dân mới cung tiến.
Lớp thứ năm: Tượng Di Lặc, được tạo ở tư thế đứng trên đài sen, mình trần, béo, hở rốn, miệng cười lạc quan thư thái.
Tượng thờ ở tòa tiền đường, có hai nhóm:
Nhóm tượng bên trái, có tượng Đức Ông, tượng Quan Âm tọa sơn. Và Quan Âm tống tử. Các pho tượng này đều có niên đại thời Nguyễn (TK XIX). Phía trước tượng Đức Ông còn có hai pho tượng nhỏ là tượng Trừng ác và tượng Khuyến thiện, mới được nhân dân cung tiến.
Nhóm tượng gian bên phải, có tượng Thánh Hiền và tượng Địa Tạng. Đây là hai pho tượng đẹp và cũng có niên đại từ thời Nguyễn (TK XIX).
Tượng thờ ở nhà thờ Tổ có 6 pho, mới được nhân dân cung tiến.
Chùa Hòa đã được ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương xếp loại “ Di tích kiến trúc nghệ thuật” tháng 10 năm 2010, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ lâu dài và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.