Trong chiến dịch lịch sử “56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt…” chiến đấu và phục vụ chiến đấu dưới mưa bom bão đạn của quân thù, đã xuất hiện biết bao tấm gương dũng cảm, mưu trí “gan không núng, chí không mòn”; những tấm gương anh dũng hi sinh “dù bom đạn xương tan, thịt nát/ Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh”… Tính đến năm 2009, đã có 24 chiến sĩ Điện Biên được phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân.
Trong 24 chiến sĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam được phong hoặc truy phong danh hiệu Anh hùng Quân đội vì thành tích chiến đấu của họ trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 ngày ấy, có Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Hà Văn Nọa, một người con ưu tú của quê hương Vĩnh Hòa.
Anh hùng Hà Văn Nọa sinh năm 1928, tại thôn Ngọc Hòa, xã Vĩnh Hòa, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Anh sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, từng nuôi các đơn vị bộ đội về đóng quân tại địa phương. Trưởng thành trong môi trường ấy, anh Nọa sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng. Năm 1947, anh Hà Văn Nọa hăng hái tham gia nhập ngũ. Ngay từ những ngày đầu trong quân ngũ anh Nọa tỏ ra là một người anh dũng, bình tĩnh, gương mẫu, một cán bộ xông xáo, dũng cảm, trong chiến dịch Biên giới 1950, anh đã bỏ lại cánh tay phải của mình trên chiến trường, nhưng vẫn quyết tâm, hăng hái xin đi chiến đấu. Anh em đồng chí thường gọi anh với cái tên dí dỏm, thân mật là “Nọa cụt”.
Tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, anh Hà Văn Nọa được biên chế vào Đại đội 243, Tiểu đoàn 11, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312 giữ chức vụ Đại đội trưởng. Đại đoàn 312 của anh Hà Văn Nọa vinh dự được giao nhiệm vụ đánh trận mở màn vào Trung tâm đề kháng Him Lam. Tiểu đoàn 11 đảm nhiệm tiêu diệt mỏm 1 mà Đại đội 243 là đại đội chủ công, các Đại đội 241, 245 là thê đội 2. Đại đội của anh đã được trao lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng”.
Hà Văn Nọa (người cụt tay phải) nhận cờ "Quyết chiến, quyết thắng" trước trận mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ (ảnh trong "Nhà trưng bày Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ") Trong trận này, nhờ phát hiện của anh mà quân ta đã đảm bảo được phương châm “đánh chắc, tiến chắc” “đánh thắng trận đầu”. Theo như phương án tác chiến do Trung đoàn trưởng giao cho Tiểu đoàn 11 (trong đó có Đại đội 243) thì sau khi vượt suối, quân ta sẽ tiến thẳng lên cứ điểm 1. Bằng kinh nghiệm chiến đấu và lối tư duy sáng suốt, Đại đội trưởng Hà Văn Nọa phát hiện ra rằng nếu tiến như vậy, nhất định sẽ dễ đánh nhầm vào cứ điểm 2, do Tiểu đoàn 428 phụ trách. Quân ta sẽ gây thương vong cho nhau mà quân địch ở cứ điểm 1 (cứ điểm chỉ huy, mạnh nhất) sẽ thừa cơ bắn tạt sườn vào cả 2 tiểu đoàn của ta. Như vậy, chắc chắn sẽ thương vong rất lớn. Khả năng giành chiến thắng là vô cùng khó khăn. Trận Nghĩa Lộ năm 1951 đã để lại cho anh bài học sâu sắc. Theo anh, muốn đến đúng mục tiêu, Tiểu đoàn 11, do Đại đội 243 dẫn đầu, sau khi qua suối, phải tiến theo đường mòn nhỏ, qua mô đất yên ngựa, vọt về phía tay phải tiến đến cứ điểm 1.
Ý kiến của anh nhanh chóng được đề đạt lên các cấp: Tiểu đoàn, Trung đoàn, Đại đoàn và Bộ Chỉ huy chiến dịch. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lúc ấy là Tư lệnh chiến dịch đã quyết định lùi giờ mở màn chiến dịch 48 giờ để tổ chức trinh sát lại. Kết quả cho thấy phát hiện của Đại đội trưởng Nọa là hoàn toàn chính xác.
17 giờ 30 ngày 13/3/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Trong khi mũi tiến công mỏm 2 và 3 phát triển thuận lợi thì hướng ở mỏm 1, mũi chủ yếu của Đại đội 243, Tiểu đoàn 11 gặp khó khăn khi đột phá mở cửa hàng rào. Hỏa lực pháo binh của địch lúc đầu bị tê liệt vì pháo ta uy hiếp, dần dần hoạt động trở lại khá mạnh, đã ngăn chặn ác liệt đường tiến quân của tiểu đoàn, đồng thời những ụ súng ngầm và những hỏa điểm di động mai phục trong cứ điểm đã bất ngờ xuất hiện rất lợi hại, sát thương và ngăn cản bước tiến của quân ta. Nhiều chiến sĩ ôm bộc phá hy sinh trước cửa mở. Cuộc chiến đấu mở cửa đột phá diễn ra rất gay go quyết liệt. Thê đội 1 đã mở được 6 lớp hàng rào, đến hàng rào thứ bảy thì bị hỏa lực bí mật bất ngờ bắn ra, gây nhiều thương vong. Đại đội trưởng Nọa quan sát phát hiện ra từ lô cốt gần đó địch đào một đường hào sát hàng rào bắn chặn ta lên mở cửa. Trung đội bộc phá của Đại đội 243 hy sinh và bị thương gần hết, phải điều thê đội 2 lên trợ chiến.
Đại đội trưởng Nọa và thê đội 2 lên được nửa chừng thì lại một hỏa điểm bí mật khác từ mỏm 2 bắn đại liên chéo cánh sẻ sang, nên thê đội 2 không thể tiến lên được, một số anh đã hy sinh. Anh Nọa gọi về tiểu đoàn đề nghị chi viện để đánh hỏa điểm ở mỏm 2. Cùng lúc đó, pháo binh ta nhất loạt bắn đồn dập vào các trận địa của địch. Chớp thời cơ, anh Hà Văn Nọa tổ chức lại lực lượng, nhanh chóng cùng các chiến sĩ trong tiểu đoàn phá nốt hàng rào chiếm đột phá khẩu, theo giao thông hào thọc sâu vào tung thâm, xung kích ào ạt vượt qua cửa mở xông vào cứ điểm, tỏa thành nhiều mũi, kết hợp chặt chẽ với việc tiêu diệt từng lô cốt với hành động thọc sâu, chia cắt quân địch của các bộ phận, vừa tác chiến vừa địch vận gọi hàng. Tiểu đội trưởng Tiểu đội 1 Trung đội 4, Đại đội 243 Nguyễn Hữu Oanh dẫn đầu tiểu đội dao nhọn lao thẳng vào trung tâm như lốc cuốn dẫn đầu đội hình xung kích của Tiểu đoàn 11 toả đánh chiếm các mục tiêu. Bằng động tác mau lẹ, Nguyễn Hữu Oanh nhảy lên nóc lô cốt phất cờ “Quyết chiến quyết thắng” vẫy toàn đơn vị đánh thẳng vào trung tâm cứ điểm. Trận đánh mở màn kết thúc lúc 23 giờ 30 phút ngày 17 tháng 3 năm 1954. Cả tiểu đoàn lê dương số 3 do tên thiếu tá Pê - gô chỉ huy đã bị xóa sổ. Quân ta tiêu diệt gần 300 tên địch và bắt sống hơn 200 tên, hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn quy định của cấp trên 30 phút. Trận Him Lam thắng giòn giã làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận Điện Biên Phủ. Trận đầu ra quân thắng lợi lớn đối với Đại đoàn 312 có ý nghĩa to lớn, tạo nên niềm tin tưởng và sức chiến đấu mới cho bộ đội. Trong cuốn hồi ký “Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Riêng một đại đội của tiểu đoàn 11, đại đội 243, do đại đội trưởng Nọa chỉ huy, đã gây cho địch một bất ngờ lớn. Từ đồi E tiến theo đường 41, đại đội 243 đánh xuyên qua tiểu đoàn dù số 5, rồi chia làm hai mũi, một mũi đánh vào khu trận địa pháo, gây cho chúng nhiều thiệt hại, một mũi đánh vào tiểu đoàn dù thuộc địa số 1. Mặc dù bị tổn thất, các dũng sĩ đại đội 243 vẫn táo bạo phát triển ra tới bờ sông Nậm Rôm và gan góc trụ lại trong lòng địch, đương đầu với chúng suốt ngày hôm sau.”
Trong đợt tấn công thứ 2 của chiến dịch Điện Biên Phủ đơn vị của anh Hà Văn Nọa được Bộ chỉ huy giao nhiệm vụ thọc sâu giữa hai đồi E và D gây rối loạn đội hình địch, tiêu diệt trận địa pháo của địch chân đồi D. Ngay khi tiếng súng ở đồi D và E đang giòn giã, Đại đội trưởng Hà Văn Nọa dẫn Đại đội 243 vượt đường độc đạo dài và hẹp giữa đồi D và đồi E, luồn sâu vào trong căn cứ địch. Bọn địch phát hiện được quân ta, chúng tập trung hỏa lực chống trả, bịt kín con đường tiến của ta. Mặc dầu ở tình thế bất lợi nhưng Đại đội trưởng Đại đội 243 Hà Văn Nọa vẫn bình tĩnh chỉ huy anh em chiến đấu. Đại đội nhanh chóng hình thành 2 mũi tiến công địch. Một mũi do Đại đội phó Hiệu và Chính trị viên Đại chỉ huy đánh vào bên sườn của Tiểu đoàn 5 ngụy (5e- BPVN). Mũi khác do Đại đội trưởng Hà Văn Nọa chỉ huy đánh thẳng vào trận địa pháo. Trước phản ứng của ta, bọn địch bỏ chạy xuống chân đồi. Thừa thắng quân ta đánh thẳng vào sở chỉ huy Tiểu đoàn Âu phi số 6, diệt trận địa pháo của địch ở điểm cao 210, đuổi địch ra bờ sông Nậm Rốm. Gần sáng, Đại đội 243 trụ lại bên đường 43 rồi tự lập ra một "cụm cứ điểm" tạo thành trận địa phòng ngự. Lợi dụng bờ ruộng, các chiến sỹ Đại đội 243 dùng tay moi đất đắp công sự. Vũ khí thiếu, nhưng các chiến sĩ đều quyết tâm không rời trận địa. Họ tự băng bó lại vết thương, sẵn sàng lưỡi lê, lựu đạn..chuẩn bị chiến đấu. Lúc này, Đại đội chỉ còn 20 cán bộ, chiến sỹ, trong đó có 7 anh bị thương, chi bộ còn 4 đảng viên. Đại đội trưởng Hà Văn Nọa chủ chì cuộc họp chi bộ dưới chiến hào, hạ quyết tâm giữ vững trận địa. 9 giờ sáng ngày 2/4/1954, Đại đội 243 không thể liên lạc được với Tiểu đoàn, Trung đoàn. Trong tiếng được, tiếng mất của máy điện đàm, anh Hà Văn Nọa "Báo cáo tiểu đoàn, lực lượng chúng tôi còn lại một tiểu đội, đạn hết, xe tăng địch đang đến gần, chúng tôi vẫn kiên quyết...". Đúng lúc đó, quân địch ở Mường Thanh huy động 1 tiểu đoàn có xe tăng chia làm 3 mũi phản công vào trận địa của ta. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, đạn hết, Đại đội trưởng Hà Văn Nọa hô "xung phong", tất cả bật khỏi công sự, dùng lưỡi lê, báng súng đánh giáp lá cà vật lộn với địch cho đến chiến sỹ cuối cùng. Trận đó, Đại đội trưởng Hà Văn Nọa cùng với nhiều cán bộ, chiến sỹ của Đại đội 243 đã vĩnh viễn nằm lại trên chiến trường Điện Biên Phủ, khi ấy anh mới 26 tuổi.
Tấm gương hy của anh Hà Văn Nọa đã cổ vũ toàn đơn vị hăng hái xung phong tiến lên tiêu diệt địch, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chiến tranh đã lùi xa nhưng để có nền độc lập, tự do của Tổ quốc hôm nay thì biết bao con dân đất Việt đã phải hy sinh như anh Hà Văn Nọa. Chẳng ai có thể “đếm được khăn tang”, không ai “đong hết máu chiến trường”, tấm gương hy sinh anh dũng của anh Hà Văn Nọa cũng như hàng triệu liệt sỹ khác đã hóa thành bất tử và sống mãi trong lòng lớp lớp thế hệ người dân đất Việt. Ngày 16/12/2004, Liệt sĩ Hà Văn Nọa đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân”. Anh hùng Hà Văn Nọa sống mãi trong trái tim, kí ức của người dân Vĩnh Hòa, máu xương anh đã hóa thân vào hồn thiêng sông núi, sáng mãi cùng non nước Việt Nam.
(Bài viết sử dụng tư liệu từ trang thông tin điện tử Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Vĩnh Hòa giai đoạn 1930 – 2015” và cuốn “Văn hóa làng Ngọc Hòa” )