VĂN HÓA-XÃ HỘI
Đền Cả(thôn Ngọc Hòa, xã Vĩnh Hòa, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương)- Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh
24/03/2023 10:59:28

Đn Cả làng Ngọc Hòa, hiện đang uy nghi tồn tại. Ở đây, hằng năm vẫn diễn ra các hoạt động lễ hội của dân làng cùng khách thập phương, tôn vinh công đức vị Thần làng và thỏa mãn đời sống tâm linh của mọi người. Ngôi đền xưa và nay là thành quả công sức của nhân dân. Cùng với sự tích vị Thần được thờ ở đây, ngôi đền đã và đang là một địa chỉ văn hóa, thu hút nhiều du khách thập phương.

 Đền Cả - Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh

Cuối năm Giáp Thìn (1124), theo sắc chỉ của vua Lý Nhân Tông, trên khoảnh đất gần nơi an táng vị thần “Nguyệt Quỳnh Công Chúa”, dân Thì Ung trang lúc đó đã lập một ngôi miếu nhỏ để thờ phụng Ngài.

Tương truyền: Một hôm có một gia đình mất một con trâu. Tìm mãi chỉ thấy trâu đang nằm phục trước bát hương trên mộ Ngài, mọi người thấy đó là sự lạ; cho là bát hương đã “bay” từ miếu tới đó. Vì vậy họ đã góp của, góp công góp của dựng một ngôi miếu khác lớn hơn ở đây.

Vào ngày 16 tháng 5 Quý Dậu (1784), nhân đón sắc phong của vua Lê Hiển Tông (Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44), dân làng Thì Ung lúc đó đã long trọng khởi công xây dựng ngôi đền mới, to đẹp hơn, thay thế ngôi miếu cũ. Đền mới được gọi là đền Cả.

Đền Cả tọa lạc trong một khuôn viên rộng hơn 3000 mét vuông, tại khu đồng phía Tây Bắc làng. Tại đền Cả, hơn tám trăm năm nay tôn thờ vị Thần có tước hiệu là “ Hà Gia Trinh Liệt Đại Vương”. Dân gian thường gọi là Vua Bà.

Ban thờ Thành Hoàng làng - Hà Gia Trinh Liệt Đại Vương 

Theo thần tích thì Vua Bà có tên thật là Hà Thị Nguyệt Quỳnh. Người là con gái duy nhất của quan Thái úy Hà Ư, dưới thời vua Lý Nhân Tông.

Thái úy Hà Ư, vì muộn sinh con nên đã xin từ quan, cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thuận về quê hương Thì Ung trang, tức là làng Ngọc Hòa ngày nay sinh sống. Ông bà ngày đêm tu tâm tích đức, làm nhiều việc thiện, như cung tiến tiền bạc xây chùa, đúc chuông, bắc cầu; đồng thời con mở trường dạy chữ, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa,.. chỉ với một mong ước là sinh được một người con, dù trai hay gái cho trọn đạo hiếu với tổ tông.

Dương như Trời không nỡ phụ lòng người nhân đức, giờ Sửu, ngày mồng Sáu, tháng Giêng, năm Canh Thìn (năm 1100), quan bà đã sinh hạ được một người con gái.

Tương truyền rằng: Lúc mang thai, quan bà mơ thấy ánh trăng soi, khi vượt cạn thì trên mái nhà có đám mây hồng che phủ, trong phòng sực nức hương lan quế. Người con gái vị Thái úy, khi mới được sinh ra đã khôi ngô, xinh đẹp khác thường. Ghi lại sự kiện ấy, người xưa đã viết: “Khích ánh tường trình, lan quế hương danh, hồng vân phú ốc, thánh nữ ứng sinh, tuyết sương băng ngọc, chính trực thông minh.”( Trích văn tế Thần ).

Với niềm vui khôn xiết, quan ông đã đặt tên cho con gái là Nguyệt Quỳnh. Được cha mẹ nuôi dạy chu đáo, nàng Nguyệt Quỳnh càng lớn, càng xinh đẹp, nết na thùy mị và cũng tinh anh khác thường nổi tiếng gần xa. Vào độ tuổi trăng tròn, nàng Nguyệt Quỳnh đã lọt vào mắt xanh của Hoàng tử Thành Khánh hầu, lúc Ngài dẫn quân tuần thú qua đất Thì Ung. Hoàng tử đã ngỏ lời xin đưa nàng về kinh đô làm vợ.

Năm 1124, đất nước “ Có thủy tặc. Vua đặc sai Hoàng tử thân xuất tướng sĩ đi đánh dẹp. Chẳng may Hoàng tử tử trận. Quan quân đưa thi hài Ngài về kinh đô. Trong tận cùng thương đau, nàng Nguyệt Quỳnh đã nêu cao khí tiết với Hoàng tử, nhất định đập đầu chết theo” ( Lược trích Thần tích viết bằng chữ Hán ).

Cảm phục trước cái chết lẫm liệt đó, vua Lý Nhân Tông đã đặc biệt ghi nhận nàng là người đàn bà Trinh Liệt, ban tặng tên húy hai chữ: Công Chủ (), (cũng đọc là Công Chúa. Nghĩa là: Ngài là Chủ, là Chúa chung một vùng); đồng thời ban cho Ngài tước hiệu là: Hà Gia Trinh Liệt Đại Vương. Nhà vua cũng sai rước thi hài người phụ nữ trinh liệt ấy về quê hương an táng tại xứ Đồng Soi, giao cho dân Thì Ung trang lập miếu thờ tự.

Tương truyền vị Thần làng Ngọc Hòa rất linh thiêng, thường “ Ngầm hộ quốc bảo dân, hoãn hạn trừ tai, tôn phù xã tắc, củng cố quốc gia,..” nên Ngài đã được nhân dân tôn sùng, mến mộ, cung kính thờ phụng; được các vị vua, từ thời đại nhà Lý đến thời đại nhà Nguyễn ban 28 sắc phong, đánh giá và ca ngợi công đức của Ngài, nêu gương cho mọi người học tập.

 Quy hoạch kiến trúc ngôi đền

Quy hoạch kiến trúc ngôi đền gồm:

Một tòa chính điện, cửa nhìn hướng Bắc. Một am thờ ngoài trời, nơi phần mộ vị Thần và 3 gian nhà sắp lễ, cửa nhìn hướng Tây. Trước mặt toàn chính diện có một hồ nước, thả sen. Trong vườn đền, trồng nhiều cây cổ thụ và các loại hoa, cây cảnh,.. tạo nên một quang cảnh thâm nghiêm, tĩnh mịch.

Tòa chính điện: Kiến trúc theo kiểu chữ Nhị ( ). Phía trước là tòa điền đường gồm ba gian và hai chái, bốn mái, lợp ngói mũi, có đầu cao cong vút. ( Nay trong đền còn giữ được một đầu rồng, chất liệu đất nung, có lẽ trước đây được gắn trên một đầu đao). Trên nóc đắp đôi rồng chầu mặt trời. Phía sau cách tòa tiền đường một sân long rộng chừng gần 2 mét, là ba gian hậu cung. Toàn bộ ngôi chính điện có kết cấu khung bằng gỗ lim, có nhiều họa tiết hoa văn được chạm trổ rất tinh vi. Tường xây gạch đất nung. Cung thờ chính có ngai, bài vị, quạt ngà do vua ban tặng. Hai gian tả, hữu là ban thờ thân phụ và thân mẫu vị Thần. Các đồ khí tự trong đền đều có phủ hoành phi, câu đối, hương án, bát hương, lộc bình, kiệu đòn rồng, bát biểu, quy, hạc,v.v..

Khoảng trước năm 1670, đến trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, do làng Thì Ung tách thành hai làng: Thì Ung (Sau đổi là Hòa Ung) và làng Ngọc Lôi, nên đền lúc này có tên là tự là “Hòa Ngọc linh từ”.

Đền Cả là nơi chính, thờ đức Thành hoàng. “Quanh năm hương hỏa bất tuyệt”. Đền Cả còn là nơi diễn ra nhiều hoạt động của các lực lượng yêu nước, cách mạng hồi cuối thế kỷ XIX và thế kỷ XX. Có thể kể ra một số sựu kiện tiêu biểu sau đây:

Trong phong trào chống thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ nhất, đền Cả đã từng là nới đặt sở chỉ huy của Nghĩa quân do Nguyễn Trọng Vinh lãnh đạo. Tại đây, ngày 13 tháng 12 năm 1897 cũng đã diễn ra lễ tế cờ và xuất quân của một đội nghĩa quân do đốc Liễu và Bội Ba chỉ huy, tiến đánh đồn giặc Pháo ở phủ Ninh Giang.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai (1946 – 1954), đền Cả là một địa điểm diễn ra nhiều hoạt động của Việt Minh và quần chúng cách mạng, như nơi sinh hoạt thường kỳ của Tổ Đảng An Bình thuộc chi bộ Đảng Lao Động Việt Nam xã Đồng Tâm (bao gồm cả xã Vĩnh Hòa ngày nay). Đặc biệt, tại đây đã diễn ra nhiều cuộc tiễn đưa thanh niên tình nguyện của xã lên đường vào bộ đội ra trận giết giặc. Trong đó, ấn tượng sâu sắc nhất là hai buổi tiễn đưa 70 thanh niên lên đường vào các ngày 1 tháng 5 và 19 tháng 5 năm 1950. Tại các buổi tiễn đưa ấy, sau nghi thức lễ, do Ủy ban kháng chiến hành chính xã tổ chức long trọng, các thanh niên tình nguyện đã thắp hương bái lạy Đức Thành Hoàng, cầu mong mạnh khỏe và hứa sẽ giết nhiều giặc, lập công.

Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, đền Cả cũng đã từng là nơi mà nhiều cơ quan, trường học trong và ngoài hành tinh sơ tán về.

 

Suốt chiều dài lịch sử hơn 800 năm, miếu Cả - đền Cả đã tồn tại như một công trình văn hóa – lịch sử, mang đậm sắc văn hóa dân tộc , truyền thống yêu nước, cách mạng của quê hương. Nhưng do được xây dựng đã quá lâu, thời tiết khắc nghiệt và cũng do nhận thức không đúng đắn về giá trị văn hóa truyền thống một thời, nên ngôi đền đã xuống cấp nghiêm trọng và bị hủy hoại.

Sau hàng chục năm bị sao nhãng, đến cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ngôi đền cùng hoạt động lễ hội tôn vinh Đức Thành Hoàng dần dần được khôi phục.

Bằng tiền bạc của nhân dân trong làng gom góp và của khách thập phương cung tiến, việc phục dựng ngôi đền đã được hoàn thành về căn bản vào ngày 10 tháng 11 năm 2003, sau đó tiếp tục được tu bổ.

Đến nay, ngôi đền đã trở lại vững trãi, khang trang. Đền cơ bản vẫn giữ được kiến trúc trước đây, trên nền xưa, hướng cũ. Kiến trúc mặt bằng tòa chính điện theo hình chữ Công () gồm 3 gian hai trái tiền đường, một gian ống muống và hơn một gian hậu cung. Đền được xây dựng bằng xi măng cốt thép. Trang trí nội thất, đồ khí tự hầu như trở lại như xưa: Cửa võng, hoành phi, câu đối, ngai, kiệu, bát bảo,.. đều bằng gỗ sơn son thếp vàng lộng lẫy.

Trải qua những thăng trầm của lịch sử, đền Cả vẫn luôn gắn bó với mảnh đất, con người nơi đây. Ngày 20/1/2015, Đền Cả được UBND tỉnh Hải Dương xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Đó cũng là một “điểm nhấn” về lịch sử - văn hóa trên hành trình hướng tới tương lai của xã Vĩnh Hòa nói riêng, của huyện Ninh Giang và tỉnh Hải Dương nói chung.

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ XÃ VĨNH HÒA - HUYỆN NINH GIANG

Trưởng Ban Biên tập:  Nguyễn Xuân Thiêm

Địa chỉ: Xã Vĩnh Hòa, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương

Điện thoại: 02203689266

Email: vinhhoa.ninhgiang@haiduong.gov.vn

 
Số lượt truy cập
Đang truy cập: 0
Hôm nay: 0
Tất cả: 0